March 1, 2007

(56) Canh bạc bịp vĩ đại cuối đời

Thiết Trượng (5-2002)

Những người lính của quân lực VNCH đã nhục nhã, ê chề, tủi hổ với ngày 30-4-1975 khi ông "tướng sún, hoa lan" Dương văn Minh ra lệnh đầu hàng cộng quân. Người bênh ông, nói ông đúng vì cứu Saigòn khỏi đổ nát. Kẻ chê ông nói rằng, chả thấy cứu dân đâu mà chỉ thấy trăm ngàn "Quân Cán Chính" chết trong trại cải tạo, cả nửa triệu người bỏ thây trên biển Đông hay các đường lộ ven rừng Miên-Việt... Rồi ngược hơn về quá khứ, có người trách ông Nguyễn văn Thiệu nếu đừng "tháu cáy" người Mỹ khi bỏ rơi quân khu 2, thì tình hình có thể khác!

Hai ông mang danh Tổng Thống của VNCH, từng là tướng lãnh của Quân lực VNCH đều đã qua đời, mang theo một số bí ẩn chính trị về cái chết của miền Nam VN... Chúng ta nghiêng mình kính cẩn trước cái chết bi hùng của các tướng Nguyễn khoa Nam, Lê văn Hưng, Phạm văn Phú... và rất nhiều chiến sĩ các cấp khác của mọi binh chủng Quân lực VNCH, không muốn thân xác mình bị ô uế trong tay giặc.
 
Trong thân phận đào thoát, những người lính QL VNCH cấp bậc khiêm nhường như chúng ta chỉ ngạc nhiên khi thấy nhiều tướng lãnh thượng cấp của mình "án binh bất động". Trong thất vọng mịt mù chả thấy một người hùng kiểu tướng Charles De Gaulle của chính phủ Pháp lưu vong, để huy hoàng chiến thắng trở về quê hương giải phóng. 
Chỉ có hào quang le lói lúc ban đầu với Mặt Trận của Phó Đề Đốc Hoàng cơ Minh rồi sau đó tắt ngủm... Có người cho rằng "phần lớn" các ông tướng được đào tạo từ thời thực dân, đã quen kiểu "ông thầy" bật đèn xanh mới dám làm. Cho nên với tính cách đầu óc nô lệ trên, các ổng không dám ho he, động đậy khi quan thầy đang lo làm chuyện khác... Thời gian trôi, càng ngày người ta càng thấy "đường về quê, xa lắc, xa lơ".
  
Còn ở quê nhà, Cộng sản VN sau khi công khai xé bỏ Hiệp định Paris, coi các chữ ký của những  quốc gia khác như "ne pas", kiểu có cũng như không, chiếm lĩnh toàn cõi miền Nam. Trần văn Trà ra sách kể công đầu, liền bị Văn tiến Dũng "phản công" bằng cuốn "Đại thắng mùa Xuân". Phe Nam bộ càng ngày càng bị tấn công và "chết lụi" khi CS Bắc Việt chơi trò thống nhất, khai tử Mặt trận Giải phóng miền Nam. Với sự bịp bợm chuyên nghiệp của CS, các người theo họ đều hiểu nhưng chỉ dám phản kháng với mức độ yếu hay mạnh tùy theo tình hình lượng định, nếu không chỉ có... chết.

Chắc nhiều người còn nhớ, lúc nhà văn Nguyễn Tuân (Hình) được hỏi, sao ông vẫn còn "sống sót" sau những vụ thanh trừng của Nhân văn Giai phẩm, ông này chỉ vắn tắt "tôi biết sợ". CS áp dụng triệt để tâm lý "tham sinh úy tử", tham sống sợ chết của con người khiến kẻ đối kháng phải chọn lựa trước khi quyết định; chưa kể chính sách cắt "hộ khẩu" làm kiệt quệ sinh lực con người.

Chúng ta có nỗi đau khi CS chiếm miền Nam. Dân miền Nam tập kết năm 1954, Mặt trận Giải phóng miền Nam có nỗi đau bị "vắt chanh bỏ vỏ". Nhưng trước tin hiến đất, dâng biển của CSVN cho Trung cộng, bất cứ người dân Việt nào cũng thấy xấu hổ, nhục nhã và căm hận. Từ thời kháng chiến 1945, CSVN vẫn rêu rao giữ nước, dựng nước; chống đế quốc này đế quốc khác. Để rồi ngày nay, đảng của những người vô sản đã lộ rõ bản chất "mãi quốc cầu vinh". Có lẽ các người theo CS nay đã hiểu tại sao Quân lực VNCH anh dũng chống chỏi với quân Cộng sản. Chúng tôi nghĩ các người theo CS còn tâm huyết với quê hương dân tộc khi bộ mặt bịp bợm của tụi ma đầu lãnh đạo rơi xuống chắc còn đau khổ hơn những người thua cuộc là chúng ta.

Chỉ mong những người bị bịp, nếu còn can đảm và dũng khí, chấp nhận đã chọn lựa sai đường, và với sức tàn hơi kiệt như tướng Trần Độ chẳng hạn, nên thẳng thắn nhắn nhủ lại thế hệ con cháu để họ biết đường ngay nẻo chính, may ra cứu vớt lại những gì mất mát. Nếu còn tự ái hay vì xấu hổ thì đừng gân cồ biện minh, giương cao ngọn cờ của một chủ nghĩa đã chết.

Thơ dân gian bao giờ cũng phản ánh đúng thời đại lịch sử. Sau tháng 4-1975 ít lâu, người ta đã nghe:

Đả đảo Thiệu Kỳ, mua cái gì cũng có,
Hoan hô Hồ chí Minh mua cái đinh không thấy.

Để rồi, dâng đất hiến biển mới đây, dân gian ở VN được nghe:

Hoan hô Cộng sản Việt Nam,
Cuối đời đem bán giang san nước nhà.

Nỗi nhục trên xin giành chung cho mọi người Việt Nam và đặc biệt riêng tặng cho các người từng xả thân cho đảng CSVN để suy ngẫm.

Thiết Trượng

Nhật báo Viễn Đông tháng 5, 2002

1 comment:

NamViet said...

MỸ ĐÃ KHÔNG BỎ RƠI VNCH.
MỸ SẼ KHÔNG BỎ RƠI IRAQ.

Tấm hình nêu trên cho thấy người Mỹ vẫn còn nhiệt tình yểm trợ VNCH.
Hình như mọi người đều quên, hay cố ý quên rằng người Mỹ đã bắt buộc phải rời khỏi nước VNCH trong vòng 24 tiếng đồng hồ và sau đó không được phép can thiệp vào các vấn đề của VNCH chỉ vì người Mỹ phải chấp hành nghiêm túc một lời YÊU CẦU, thật ra là một MỆNH LỆNH, của vị Tổng Thống Cuối Cùng của VNCH là Dương Văn Minh. Như vậy, Mỹ đã không bỏ rơi VNCH.

Để thực thi nghiêm chỉnh Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973, nước Mỹ cũng như tất cả các nước đồng minh tham chiến tại VN phải rút quân về nước. Sự kiện rút quân Mỹ ra khỏi VN sau khi đã có Hiệp Định Hoà Bình Paris năm 1973 ngưng bắn vãng hồi hoà bình không có nghĩa là người Mỹ đã bỏ rơi VNCH như nhiều người đã có kết luận oán trách cay cú.

Trong khi người Mỹ đã hạ quyết tâm phải làm tan rã Liên Xô và phải Tư Bản Hoá Trung Cộng, thì rõ ràng người Mỹ đã không có ý định phải bỏ rơi VNCH trong khi người Mỹ đã yểm trợ cho VNCH phát triển mọi mặt tương đối mạnh hơn VNDCCH của CS Bắc Việt trong suốt thời gian chiến tranh VN. Chương trình tái thiết VNCH thời hậu chiến đã đang tiến hành tốt đẹp để chuẩn bị cho người CSVN ở miền Bắc, nhất là người dân miền Bắc thấy được sự thật phồn vinh thịnh vượng của miền Nam như thế nào, và để đánh tan sự tuyên truyền giải phóng bịp bợm của người CSVN.

Nguyên nhân chính rõ ràng là những người lãnh đạo VNCH đã không hiểu thông suốt chính sách và chiến lược toàn cầu của người Mỹ. Có thể TT Thiệu đã không hiểu được NT Kissinger thực sự muốn nói gì trong cuộc gặp mặt lần cuối cùng tại SG về vấn đề "Bốn Không" của TT Thiệu.

Chính vì không có một viễn kiến chiến lược tương lai được cập nhật hoá thích ứng với đồng minh, những người lãnh đạo VNCH đã lâm vào tình thế bối rối và phải lúng túng chuyển giao quyền hành của tổng thống, một cách liên tiếp hấp tấp, một cách bất định trong một thời gian ngắn, và cuối cùng là Dương Văn Minh, một người "Không Có Bản Lĩnh Chính Trị", nhưng thực sự “đã đuổi được người Mỹ ra khỏi nước VNCH”, và bất ngờ tạo ra một “Cơ Hội Bằng Vàng Trên Trời Rơi Xuống” cho người CSVN "bất chiến tự nhiên thành - không đánh mà thắng" một cách ngon lành, và khiến cho chiến lược toàn cầu của Mỹ ở Châu Á và kế hoạch một nước VN thống nhất bằng hiệp thương tổng tuyển cử phải bị gián đoạn kể từ đó.

Hình ảnh của vị Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn phải vội vã cuốn lá cờ Mỹ, và hình ảnh chiếc trực thăng đậu trên nóc toà đại sứ để di tản người tị nạn cộng sản, đã được báo chí tô vẽ phóng đại như là một sự bại trận nhục nhã của người Mỹ tại VN.

Sự thật không phải như vậy. Người Mỹ Cuối Cùng phải rời khỏi VNCH bởi vì phải tuân theo mệnh lệnh của vị Tổng Thống Cuối Cùng của VNCH. Quả thật là một sự khốn nạn!

Giả sử Người Mỹ Cuối Cùng và Lá Cờ Mỹ vẫn còn bay phất phới ở Toà Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn trong lúc bộ đội CS Bắc Việt của nước VNDCCH và Việt Cộng tại địa phương đánh vào thủ đô Sài Gòn của nước VNCH, có phải quá rõ ràng để cho cả thế giới thấy là VNDCCH đã vi phạm hiệp định ngưng bắn hay không? Còn Vùng I và Vùng II ở miền Trung, vì lẽ VNCH đã quyết định rút bỏ cho nên người CSVN phải lấy một cách quá dễ dàng.

Đồng Minh đã rút về nước trong danh dự. Nếu nói "Đồng Minh Tháo Chạy" là nói không đúng, và để vuốt ve an ủi tự ái của chính mình khi phải sống đời lưu vong!

Giả sử vị Đại Sứ Mỹ và Lá Cờ Mỹ vẫn còn ở tại thủ đô Sài Gòn của VNCH trong ngày 1 tháng 5 năm 1975, cả nước Mỹ lúc đó không khoanh tay đứng nhìn, phải không?!

Rất rõ ràng là (TT) Dương Văn Minh đã bị mắc vào cạm bẫy của người CSVN khi đã yêu cầu Người Mỹ Cuối Cùng phải rời khỏi nước VNCH, và biến những vụ vi phạm hiệp định hoà bình thành những "cuộc tổng nổi dậy tổng khởi nghĩa" một cách rất xảo trá lừa gạt người dân VN và thế giới.

Và tất cả báo chí lúc đó đều tỏ vẻ hả hê, một cách không công tâm, một cách rất ác cảm với người Mỹ, cho rằng đáng đời người Mỹ với một cuộc chiến đã biết trước là không thể thắng tại VN. Tất cả báo chí lúc đó đều tuyên truyền một nhận định sai lầm là chiến tranh VN là cuộc chiến của người Mỹ với người CSVN của VNDCCH, và đã làm sai lệch ý nghĩa chiến đấu của quân dân VNCH chống lại sự xâm lăng của VNDCCH từ miền Bắc VN, chống lại sự lan tràn chủ nghĩa cộng sản ở VN và Đông Nam Á. Tuyên truyền của người CSVN là VNDCCH đánh người Mỹ xâm lược để giải phóng miền Nam của VNCH. Thực chất của cuộc chiến lại là người CSVN ở miền Bắc của VNDCCH đã khởi động vũ trang xâm lăng miền Nam của VNCH.

Chiến tranh VN là cuộc chiến giữa VNDCCH và VNCH, một cuộc nội chiến Quốc Cộng ở VN. Người Mỹ can dự vào cuộc chiến là để yểm trợ VNCH ngăn chặn không cho làn sóng cộng sản lan rộng trong vùng Đông Nam Á. Người Mỹ có mặt tại VN là để giúp đỡ VNCH bảo vệ nền dân chủ và sự tự do của nhân dân miền Nam thuộc VNCH chống lại ý thức hệ cộng sản.

Hiệp Định Hoà Bình Paris năm 1973 là chấm dứt xung đột vũ trang để các đảng phái ở cả hai miền Nam Bắc VN có thể hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước VN.

Chúng ta hãy nhớ lại hai nước Tây Đức và Đông Đức đã hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước của họ như thế nào. Còn hai nước Nam Hàn và Bắc Hàn sau khi ngưng bắn đã có những cuộc hiệp thương do Uỷ Ban Thống Nhất Hàn Quốc tổ chức. Trong tương lai chắc chắn họ sẽ có một cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước của họ trong hoà bình.

Như vậy, giả sử những người lãnh đạo VNCH trong thời điểm của những tháng 1, 2, 3, 4 năm 1975 đã có một “Bản Lĩnh Chính Trị” bản sắc VN để không bị chi phối quá nhiều bởi những biến động chính trị nội bộ của TT Nixon.

Giả sử TT Thiệu nhất định không lo sợ, không từ chức một cách vội vã vì nghe tin người Mỹ cúp viện trợ. Sự thật là người Mỹ đã không cúp viện trợ cho VNCH. Và trong năm ngân sách 1975 VNCH đã có thể tự túc tự cường. Chỉ vì tâm lý của những người lãnh đạo bị chao đảo đã khiến cho rối loạn lòng binh sĩ!

Giả sử quyền hành tổng thống VNCH đã không được chuyển giao cho Dương Văn Minh.

Giả sử không có một vị TT nào của VNCH đã ra lệnh hay yêu cầu người Mỹ phải rời khỏi nước VNCH trong vòng 24 giờ. Chắc chắn người dân VN đã có một nước VN thống nhất, độc lập, hoà bình, dân chủ, tự do, tư bản chủ nghĩa với một nền kinh tế thị trường tự do từ mấy chục năm qua.

Bây giờ, chúng ta phải bình tĩnh và công tâm để nhận xét rằng có phải những người CSTQ và CSVN đã được người Mỹ TƯ BẢN HOÁ cho họ nhiều lắm, phải không? Có phải hiện nay Tư Bản Mỹ đã đang cải tạo rất thành công Ý Thức Hệ Cộng Sản ở Hoa Lục và VN? Có một đảng viên CSTQ hay đảng viên CSVN nào hiện tại với số tiền của và bất động sản nhiều như vậy, mà còn dám tự nhận mình là một người Cộng Sản Chân Chính, không tự cảm thấy xấu hổ?

Như vậy, người Mỹ đã phải chờ hơn ba chục năm để cải tạo tư tưởng Ý Thức Hệ Cộng Sản Việt Nam, và kết quả của công cuộc cải tạo là tất cả đảng viên CSVN hiện nay đã trở thành con người tư bản có nhiều tiền của, tiền đô la Mỹ và bất động sản, một cách rất rõ ràng cho mọi người dân VN trông thấy. Thực tế ở VN hiện nay sự thật là như vậy có đúng không?

Người Mỹ đã không bỏ rơi VNCH, chỉ vì một lời “Yêu Cầu Không Có Bản Lĩnh Chính Trị” của Dương Văn Minh mới có ngày 30 tháng 4 năm 1975 nhục nhã đau thương kéo dài cho tới nay.

(Một cách chính xác là ngay sau khi Dương Văn Minh nhậm chức TT ngày 28 tháng 4 năm 1975, đã uỷ quyền cho Thủ Tướng mới là Vũ Văn Mẫu đọc tuyên bố yêu cầu, thực chất là một mệnh lệnh, tất cả người Mỹ và quân đội Mỹ phải rời khỏi VNCH trong vòng 24 tiếng đồng hồ, nội trong ngày 29 tháng 4 năm 1975. Trong buổi sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 đài phát thanh Sài Gòn phổ biến bản thông điệp của TT Dương Văn Minh kêu gọi các lực lượng vũ trang của cảnh sát và quân đội VNCH giữ nguyên vị trí tại đơn vị, để chờ chính phủ VNCH bàn giao quyền hành cho CS Bắc Việt. Vào khoảng 11 giờ sáng cùng ngày, TT Dương Văn Minh đọc tuyên bố đầu hàng CS Bắc Việt trên đài phát thanh Sài Gòn.)

Thay vì người CSVN đã được tư bản hoá từ năm 1975, và VNCH vẫn còn tồn tại phát triển mạnh mẽ trong cả nước VN nếu TT Thiệu không quá quyết liệt Bốn Không, và TT Thiệu đã phải có đủ bản lĩnh chính trị để hiệp thương với CS Bắc Việt, để MỞ CON MẮT của người dân Bắc Việt cho họ nhìn thấy rõ miền Nam VN đã phồn vinh thịnh vượng cở nào khi so sánh với miền Bắc VN.

Rõ ràng là TT Bush có thừa khôn ngoan để biết rằng chiến tranh VN và chiến tranh Iraq hoàn toàn khác nhau từ căn bản ý thức hệ cho tới phương pháp tiến hành chiến tranh của các phe lâm chiến. Nhưng TT Bush muốn nhấn mạnh sự quan trọng và ý nghĩa cao quí của sự có mặt của người lính Mỹ ở chiến trường VN cũng như ở Iraq hiện nay là để bảo vệ sự tự do và phát huy nền dân chủ.

Nếu ở một nước sự tự do không được bảo vệ, nền dân chủ không được phát huy, thì rất nhiều thảm trạng chắc chắn xảy ra cho người dân trong nước đó. Lịch sử đã chứng minh điều đó là sự thật ở VN kể từ năm 1975 đến nay.

Sự vi phạm Hiệp Định Hoà Bình Paris của VNDCCH, sự lừa dối phản bội nhân dân VN của người CSVN trong chiêu bài hoà hợp hoà giải dân tộc xoá bỏ hận thù, lòng ích kỷ và nỗi lo sợ của người CSVN khi phải chia sẻ quyền lực với các đảng phái khác trong một chính phủ liên hiệp chân chính, đã đưa người CSVN lên đỉnh cao của quyền lực độc tôn để độc tài toàn trị cả nước VN với những hệ quả của những thảm trạng của các nhà tù giam giữ chính trị phạm, các trại tập trung học tập cải tạo quân nhân công chức cán bộ của VNCH, các vùng kinh tế mới lao khổ cải tạo doanh nhân và gia đình công thương nghiệp của thị trường tự do VNCH, các cuộc di tản kinh hoàng của người dân ở cả nước VN, nhất là người dân của chế độ VNCH, ra đi tị nạn cộng sản bằng đường bộ, bằng đường biển, để tìm tự do!

Lẽ dĩ nhiên TT Bush đã biết rõ ràng là không phải do việc rút quân Mỹ và lính đồng minh ra khỏi VNCH gây nên những thảm trạng vừa kể trên. Nhưng sự hiện diện của quân Mỹ, hay những lực lượng quân sự gìn giữ hoà bình của Liên Hiệp Quốc là một việc cần thiết để chặn tay những kẻ vi phạm hiệp định. Trường hợp điển hình như sự hiện diện của quân Mỹ ở Đại Hàn. Và thời gian phục vụ cùng với lý tưởng bảo vệ tự do, dân chủ, và hoà bình của người lính Mỹ hiện dịch và những cựu quân nhân Mỹ đã luôn luôn được đề cao và ghi ơn.

Tóm lại, khi so sánh tình hình của nước Iraq hiện nay với tình hình của nước VNCH ngày trước, có nhiều điểm không giống nhau.

Ở VN vào thời điểm những năm trước 1975 có hai nước VNDCCH ở miền Bắc và nước VNCH ở miền Nam, và Hiệp Định Hoà Bình Paris năm 1973, và người CSVN ở VNDCCH đã vi phạm Hiệp Định Hoà Bình nhiều lần.

Ở Iraq chỉ có một nước Iraq, nhưng hiện có một chính phủ liên hiệp nhiều thành phần đại diện cho người dân Iraq, và Iraq chưa có hiệp định ngưng bắn giữa các phe phái lâm chiến.

Ở VN vào thời kỳ đã ngưng bắn, cả hai nước VNDCCH và VNCH đều không muốn hoặc không thực tâm muốn hiệp thương tổng tuyển cử để có một chính phủ liên hiệp nhiều thành phần đại diện chân chính của người dân VN.

Cả hai nước VNDCCH và VNCH đều e ngại không muốn nhượng bộ, vì e ngại điều đó sẽ giúp cho phe bên kia cơ hội có nhiều quyền lực và lợi lộc hơn phe mình.

Hơn nữa, người Iraq đã có một Uỷ Ban Hoà Hợp Hoà Giải Quốc Gia Iraq tích cực hoạt động giữa các phe phái chính trị của người Iraq. Để tránh độc quyền chính trị, các phe phái chính trị của người Iraq thực hiện sự chia quyền lực một cách công bằng với nhau. Những người lãnh đạo Iraq có bản lĩnh chính trị với bản sắc Iraq, họ không bị chi phối quá nhiều bởi những biến động chính trị nội bộ của TT Bush, và họ thực tâm cộng tác với nhau để giải quyết các vấn đề đất nước của họ. Nhất là ở Iraq sẽ không có một Dương Văn Minh thứ hai và những người gian xảo như CSVN.

Người Mỹ không rời khỏi Iraq trừ phi TT Iraq yêu cầu họ ra đi. Sự rút quân Mỹ ra khỏi Iraq sẽ xảy ra khi có hiệp định đình chiến và người Iraq giải quyết các vấn đề nội bộ với nhau qua một chính phủ liên hiệp nhiều thành phần đại diện cho người dân Iraq. Sự rút quân Mỹ ra khỏi Iraq và thay vào những lực lượng gìn giữ hoà bình của Liên Hiệp Quốc để bảo đảm cho chính phủ liên hiệp hoà hợp hoà giải Iraq hoạt động có hiệu quả tốt đẹp.

Như vậy các hình ảnh nhà tù, trại tập trung cải tạo, người vượt biên tìm tự do, người tị nạn cộng sản, đã xảy ra ở VN vì người CSVN của VNDCCH vi phạm hiệp định hoà bình cưỡng chiếm VNCH, sẽ không lập lại ở Iraq. Ở Iraq sẽ không có một Dương Văn Minh thứ hai và nhưng người CSVN gian xảo, đã lừa gạt và phản bội chính người dân của họ.

Sự thật là Mỹ đã không bỏ rơi VNCH, và hiện tại Mỹ vẫn còn nhiệt tình yểm trợ VNCH. Cũng vậy, Mỹ sẽ không bỏ rơi Iraq vì người Mỹ luôn học hỏi rút kinh nghiệm từ những lầm lỗi của mình trong quá khứ để tránh lập lại lỗi lầm đó trong hiện tại. Đây chính là ý nghĩa xác thực trong lời nhắc lại chiến tranh VN của TT Bush trước mặt những cựu chiến binh Mỹ, những người đã đem mạng sống của mình đi bảo vệ sự tự do và phát huy nền dân chủ.

Cuối cùng, lịch sử thế giới chứng minh là Văn Hoá Mỹ đã chiến thắng ở Hoa Lục, VN, Nga, và các nước Đông Âu, v. v . .Văn Hoá Mỹ cũng sẽ phát triển mạnh ở Iraq và Trung Đông.

Dr. Tristan Nguyễn
San Francisco, US. 08/27/2007

www.thongtinberlin.net/diendan
http://360.yahoo.com/dzugore